Giáo dục nghề nghiệp đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

14/10/2020 96 Lượt xem

(GDVN) – Giáo dục Việt Nam, trong đó có giáo dục nghề nghiệp Việt Nam, chưa bao giờ gặp phải thách thức kép của sự phát triển mạnh mẽ của thế giới hiện đại. Bài toán về mô hình người lao động đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức chưa đi tới đáp số thì đã xuất hiện bài toán về mô hình người lao động sống và làm việc với nền kinh tế kỹ thuật số (còn gọi là kinh tế internet hay kinh tế web). Có các thành tựu lớn về công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp 3.0 đã tạo điều kiện để xuất hiện nền kinh tế tri thức. Đó là:

THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC & KỸ THUẬT

Nhân loại đã thắng được sức hút trái đất, mở đầu cho việc phát triển những công nghệ khám phá vũ trụ. Từ chuyến du hành đầu tiên đến mặt trăng của tàu Appolo 11 và Louis Amstrong cho đến hàng loạt các công trình khoa học kỹ thuật vượt bậc khác như sự xuất hiện của các nhà máy điện hạt nhân, con tàu phá băng chạy bằng năng lượng nguyên tử… Từ đó, phục vụ dân sinh đã có thêm năng lượng nguyên tử.

THÀNH TỰU VỀ Y HỌC

–    Năm 1994, bản đồ gen người đầu tiên được nghiên cứu và tạo lập thành công bởi nhóm nghiên cứu người Pháp.

–    Năm 1997, dưới sự chỉ đạo của Ian Wilmut (Scotland), người ta đã nhân bản vô tính con cừu Dolly. Lần đầu tiên, nhân loại sáng tạo thành công một sinh linh.

–    Năm 2000, tiến sĩ Francis Collins (Mỹ) đã công bố bản đồ gen người, và sau đó, người ta đã giải mã được hơn 95% bộ gen người.

THÀNH TỰU CÔNG NGHỆ

Phát minh lớn nhất ở thế kỷ XX là sự ra đời của Internet. Chính Internet được coi là biểu tượng của Cách mạng công nghiệp 3.0 – cuộc cách mạng được khởi nguồn từ ngành điện tử. Từ đây, điện tử xâm nhập vào hệ thống kỹ thuật, tạo nên Tin học (Informatic) và người máy (Robot).

Các thành tựu vĩ đại của khoa học và công nghệ trên đây đã tạo ra sự hình thành của một nền kinh tế mới – một nền kinh tế mà “chủ bài” của nó là dựa vào việc sáng tạo, chế biến, ứng dụng những tri thức (Knowledge) để tạo ra giá trị gia tăng cao nhất.

Người ta gọi nền kinh tế mới này bằng nhiều cái tên khác nhau như kinh tế học hỏi (Learning economy), Kinh tế thông tin (Information economy)… và cuối cùng, tên được nhiều người lựa chọn là Kinh tế tri thức (Knowledge economy).

Với cách hiểu sâu sắc và tầm nhìn xa rộng về nền kinh tế tri thức mà Ủy ban Quốc tế về sự phát triển giáo dục thế kỷ XXI cho rằng, cuộc cải cách giáo dục trên thế giới phải đáp ứng yêu cầu con người của nền kinh tế này, và như vậy phải tập trung vào 2 khái niệm luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau: Học tập suốt đời (Lifelong Learning) và Xã hội học tập (Learning society).

Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển khoa học và công nghệ của thế giới hiện đại đã dẫn đến cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với 4 thành tựu lớn sau đây.

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO

(artificial intelligence hay machine intelligence, AI), còn gọi là trí thông minh nhân tạo. Trí tuệ nhân tạo được nói đến như là một khả năng học hỏi và nhận thức của máy móc, thể hiện ở những tác vụ điều khiển, lập kế hoạch, lập lịch (scheduling), nhận dạng chữ viết tay, tiếng nói, khuôn mặt, chơi cờ, chơi một số trò chơi, chẩn đoán bệnh, trả lời khách hàng.Cho đến nay, chúng ta chưa thể biết Trí tuệ nhân tạo sẽ thông minh đến đâu, nhưng chắc chắn rằng, khi nó đạt tới trình độ hoàn thiện thì lao động con người sẽ hoàn toàn không như bây giờ.

2. ROBOT 3D

hay còn gọi là công nghệ sản xuất đắp dần, gồm một chuỗi công đoạn khác nhau để tạo ra một vật thể 3 chiều, với hình dạng bất kỳ, được tạo ra từ một mô hình 3D. Máy in 3D về thực chất là một loại robot công nghiệp. Nó có thể in ra chiếc ô tô, phòng làm việc, các loại đồ dùng v.v…

3. DỮ LIỆU KHỔNG LỒ (Big data)

Là một thuật ngữ dùng để chỉ một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp mà các ứng dụng xử lý dữ liệu truyền thống không thực hiện được. Những dữ liệu tạo thành các kho dữ liệu lớn có thể đến từ các nguồn như các trang web, mạng xã hội, ứng dụng dành cho các máy tính để bàn và ứng dụng trên các thiết bị di động, các thí nghiệm khoa học, các thiết bị cảm biến…

4. INTERNET VẠN VẬT (Internet of things)

Thực chất là mạng lưới vạn vật kết nối internet hay mạng lưới thiết bị kết nối Internet. 

Những thành tựu này cũng là đặc trưng của nền sản xuất hiện đại, thể hiện ở những điểm sau:

–     Từ sản xuất theo dây chuyền ra hàng loạt những sản phẩm cùng mẫu mã sang sản xuất hàng loạt sản phẩm theo các đơn đặt hàng. Đó là dây chuyền làm ra sản phẩm có cá tính.

–     Từ lao động với những thao tác trực tiếp trên máy và các công cụ sang làm việc cùng Robot và những công cụ thông minh.

–     Từ lao động lặp lại các thao tác sang lao động với những ứng dụng tri thức.

–     Từ sản xuất lấy vốn làm cơ sở sang sản xuất dựa trên sự sáng tạo nhờ những tri thức mới.

–     Từ lao động với những kỹ năng thao tác khéo léo, nhanh nhẹn sang kỹ năng tư duy sáng tạo.

–     Từ học tập để có việc làm hoặc tạo việc làm sang học tập để khởi nghiệp, sáng tạo ra các mô hình sản xuất mới.

–     Từ chỗ sử dụng những lao động đã qua đào tạo đến sử dụng những lao động có thể đào tạo, có khả có năng lực tự học, học tập suốt đời.

 Với những đặc trưng ấy, hệ thống giáo dục nghề nghiệp đứng trước nhiều thách thức mới, như:

–     Người lao động rất dễ thất nghiệp vì nhiều nghề cũ sẽ mất đi, nhiều nghề mới xuất hiện.

–     Hiện tượng thất nghiệp sẽ trầm trọng hơn khi Robot có thể đảm nhiệm nhiều vị trí làm việc của người lao động.

–     Trong những trường hợp này, việc học nghề mới là cần hoặc tốt nhất là có khả năng di chuyển nghề nghiệp.

–     Tri thức hóa lao động để tạo ra những cán bộ, công nhân, nhân viên trong doanh nghiệp, trong cơ quan thành những lao động tri thức (Knowledge workers). Ngoài yêu cầu cao về tay nghề chuyên môn, tất cả người lao động đều phải biết ngoại ngữ, giỏi về công nghệ thông tin và những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.

 TÌM KIẾM MÔ HÌNH ĐÀO TẠO PHÙ HỢP CHO NƯỚC NHÀ & TƯƠNG XỨNG VỚI CÁC NƯỚC HIỆN ĐẠI

Mới đây, GS.TS. Phạm Tất Dong đã đề xuất với Tổng cục giáo dục nghề nghiệp mô hình công dân học tập đưa con người vào hệ thống giáo dục mở: “Giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời” như hình dưới đây.

Bên cạnh đó , Nhà nước cũng sẽ ban hành Bộ tiêu chí đánh giá công nhận danh hiệu “Công dân học tập” và nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu phát triển của công nghệ.

Vừa qua tại hội nghị cấp cao về “Phát triển Nguồn nhân lực cho thế giới công việc đang đổi thay” tổ chức vào ngày 16/9, ông Trương Anh Dũng (Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp) cho biết các nước ASEAN sẽ ra mắt Hội đồng Giáo dục nghề nghiệp ASEAN. Bên cạnh đó, Hội đồng Giáo dục nghề nghiệp ASEAN sẽ tập trung vào các vấn đề: Chính sách để cải thiện hệ thống giáo dục nghề nghiệp; kết nối và khả năng thích ứng với thị trường lao động việc làm biến đổi; thu hẹp khoảng cách kỹ năng nghề giữa các nước; cải thiện sự tiếp cận giáo dục nghề nghiệp cho nhóm yếu thế; hỗ trợ hệ thống giám sát, phát triển nghề nghiệp.

Theo đó điểm nhấn là việc hợp tác liên ngành, liên chính phủ và là cơ hội kết nối giáo dục đào tạo kỹ năng với các yêu cầu của thị trường lao động, góp phần triển khai đột phá chiến lược về nguồn nhân lực, phục vụ tái cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững.

Tag: .